Truy tìm mảnh ghép còn thiếu
Ngày 17/10 vừa qua, người bệnh (NB) H.T.N., 41 tuổi, Long An vừa được chuyển khoa sau hơn 2 tuần chiến đấu với bệnh nhiễm khuẩn Leptospira diễn tiến thành hội chứng Weil. Trước nhập viện 2 ngày, NB có ớn lạnh, mệt mỏi, ngày nhập viện thì than đau bụng mơ hồ, nôn ói, chán ăn. Chụp cắt lớp vi tính (CT) ổ bụng cũng chỉ phát hiện có sỏi bùn túi mật. NB được chẩn đoán viêm tuỵ cấp và nhập viện theo dõi tiếp. Trong quá trình điều trị tại khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Nhân dân 115, NB được phát hiện có tình trạng khó thở nhiều, vàng da nhẹ, suy thận nặng, nhiễm toan chuyển hoá nặng. Dù chưa rõ bệnh lý căn nguyên nhưng nhận định tình trạng NB có thể diễn tiến phức tạp nên khoa Hồi sức tích cực và Chống độc (HSTC&CĐ) đã tiếp nhận NB. Mục tiêu điều trị của NB này tại khoa HSTC&CĐ gồm 2 mặt rõ ràng: nâng đỡ chức năng cơ quan và phải tìm ra bệnh lý gốc rễ.
Về nâng đỡ chức năng cơ quan, NB nhanh chóng được đặt ống để thở máy và lọc máu để kiểm soát tình trạng suy thận và ổn định nội môi. Dù đã dùng kháng sinh mạnh theo kinh nghiệm nhưng tình trạng vàng da ngày càng tăng, các chỉ số cận lâm sàng hướng nhiễm trùng không cải thiện. Do bức tranh lâm sàng của NB không phù hợp với viêm tuỵ nên đội ngũ chuyên gia khoa HSTC&CĐ phải đặt ra hàng loạt chẩn đoán phân biệt khác, trong đó có sốt rét và bệnh nhiễm khuẩn Leptospira – các bệnh lý không hiếm ở Việt Nam nhưng dễ bị bỏ sót trong tiếp cận ban đầu. Khai thác kỹ lại bệnh sử thì NB làm công nhân dập hộp đựng cơm tại một nhà máy ở Long An, nguồn nước sử dụng là nước giếng bơm, NB không để ý thấy môi trường làm việc có chuột hay loài động vật khác. NB chỉ thỉnh thoảng uống bia với bạn, không hút thuốc lá, không dùng bất kỳ loại thuốc nào.
Hình 1. Tình trạng xuất huyết kết mạc kèm vàng mắt đặc trưng của nhiễm Leptospira
Bức tranh lâm sàng hoàn chỉnh
Đến ngày thứ 3 sau khi nhập viện, trong khi các kết quả tầm soát sốt rét âm tính thì NB diễn tiến xuất huyết kết mạc như Hình 1. Khi đó tất cả các mảnh ghép cùng khớp với nhau tạo nên bức tranh hoàn chỉnh về một trường hợp nhiễm Leptospira nặng. Ngay lập tức, NB được sử dụng ceftriaxone đường tiêm – loại kháng sinh đặc trị Leptospira. NB còn được xét nghiệm tìm kháng thể IgG và IgM trong máu của Leptospira bằng kỹ thuật ELISA. Kết quả giúp chẩn đoán xác định tình trạng nhiễm cấp tính Leptospira với IgM > 100 U/L và IgG 14,6 U/L.
Trong vòng 7 ngày sau đó, NB tỉnh táo hơn, tình trạng viêm kết mạc và vàng da cải thiện đáng kể. NB được rút ống nội khí quản và cai máy thở thành công. Điều đáng tiếc là chức năng thận của NB vốn đã suy nặng trước đó không có sự cải thiện rõ. Qua đó càng nhấn mạnh vấn đề khám sức khoẻ định kỳ cho mọi đối tượng nhằm theo dõi sức khoẻ và phát hiện bất thường sớm nhất có thể.
Đôi nét về Leptospirosis (bệnh nhiễm trùng do Leptospira)
Leptospirosis là một bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Leptospira gây ra, lây truyền từ động vật sang người. Đây là một bệnh lý phổ biến ở các khu vực có điều kiện vệ sinh kém, khu vực đô thị đông dân cư, ở người “chân lấm tay bùn”. Leptospirosis có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi và trong nhiều môi trường khác nhau, nhưng thường thấy nhất ở những người có nguy cơ cao do tiếp xúc với môi trường hoặc động vật bị nhiễm bệnh.
Hình 2. Thủ phạm trực tiếp gây bệnh – xoắn khuẩn Leptospira
Chuột – Nguồn gây bệnh chết người từ xa xưa
Bệnh Leptospirosis do xoắn khuẩn Leptospira gây ra. Loại vi khuẩn này tồn tại nhiều trong cơ thể các loài động vật, đặc biệt là chuột. Chuột là nguồn chứa chủ yếu của vi khuẩn Leptospira và chúng lây lan vi khuẩn qua dịch tiết và nước tiểu. Con người bị nhiễm bệnh chủ yếu do tiếp xúc với nguồn nước hoặc môi trường có chứa vi khuẩn từ nước tiểu chuột và các loài động vật khác.
Bệnh có thể lây qua da nếu có vết thương hoặc qua màng nhầy (ví dụ như mắt, mũi). Người có nguy cơ cao mắc bệnh bao gồm nông dân, thợ săn, người chăm sóc động vật và những người tham gia các hoạt động ngoài trời như bơi lội, chèo thuyền, hoặc đi bộ đường dài.
Chẩn đoán và điều trị Leptospirosis
Chẩn đoán Leptospirosis dựa vào sự kết hợp giữa việc khai thác tiền sử tiếp xúc với môi trường nguy cơ và các triệu chứng lâm sàng. Để xác định chắc chắn bệnh, xét nghiệm ngưng kết vi thể (MAT) là “tiêu chuẩn vàng”, ngoài ra còn có thể XN tìm kháng thể IgG/IgM hoặc soi huỳnh quang nền đen. Tuy nhiên, việc điều trị kháng sinh nên được bắt đầu ngay cả khi chưa có kết quả xét nghiệm cụ thể như trong trường hợp NB của chúng tôi.
Thời gian ủ bệnh thường từ 2 đến 26 ngày. Bệnh Leptospirosis có thể diễn tiến từ nhẹ đến nặng:
·Bệnh nhẹ: Người mắc bệnh có thể gặp các triệu chứng giống cảm cúm như sốt, nhức đầu, đau cơ, buồn nôn và tiêu chảy. Một dấu hiệu đặc trưng là viêm kết mạc, mắt có thể đỏ lên do xuất huyết.
·Bệnh nặng: Trong trường hợp nghiêm trọng, bệnh có thể dẫn đến các biến chứng như viêm màng não vô khuẩn, suy gan, suy thận và hội chứng nguy ngập hô hấp cấp tính (ARDS). Hội chứng Weil là dạng bệnh nặng nhất, gây ra vàng da, suy thận và xuất huyết.
Leptospirosis có thể được điều trị hiệu quả với những kháng sinh đơn giản dễ tìm nếu phát hiện sớm. Tuy nhiên không nên tự ý sử dụng mà phải được nhân viên y tế tư vấn và giám sát chặt chẽ.
·Điều trị bệnh nhẹ: Sử dụng các loại kháng sinh như doxycycline hoặc azithromycin trong 7 ngày.
·Điều trị bệnh nặng: Đối với các ca nghiêm trọng, bệnh nhân cần được điều trị bằng kháng sinh tiêm truyền như doxycycline hoặc ceftriaxone.
Leptospirosis là một bệnh lý nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa và điều trị. Nếu bạn có các triệu chứng nghi ngờ như vàng da hoặc viêm kết mạc hoặc nghi ngờ có tiếp xúc với môi trường có nguy cơ, hãy đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời.
|
Phòng ngừa bệnh Leptospirosis
Leptospirosis có thể được phòng ngừa bằng cách tránh tiếp xúc với nguồn nước ô nhiễm hoặc các khu vực có nguy cơ nhiễm khuẩn. Đối với những người làm việc trong môi trường có nguy cơ cao, cần sử dụng thiết bị bảo hộ và đảm bảo vệ sinh cá nhân kỹ lưỡng.
Các biện pháp phòng ngừa cụ thể bao gồm:
·Đeo găng tay, ủng khi làm việc trong môi trường có nước ô nhiễm.
·Tránh tiếp xúc với nước mưa, nước bẩn hoặc nước đọng lâu ngày, đặc biệt là ở các khu vực có chuột.
·Vệ sinh cơ thể sau khi tham gia các hoạt động ngoài trời hoặc làm việc ở các khu vực nguy cơ cao.
·Giữ vệ sinh nơi sinh sống, làm việc, không tạo điều kiện cho chuột sinh sôi và tích cực diệt chuột.
BS Trần Huy Nhật – Khoa Hồi sức Tích cực và Chống độc - Bệnh viện Nhân dân 115