Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ

I. Giải thích bệnh nhân

Bệnh nhân cần được biết nguy cơ, mục tiêu mổ, khả năng thành công, lí tưởng nhất là người nhà bệnh nhân cũng được biết về tình trạng bệnh nhân, bản chất cuộc mổ, các phương pháp điều trị khác, nguy cơ gây mê dự báo khả năng thành công và các biến chứng có thể xảy ra. Giải thích thay băng hậu phẫu, bột, chương trình luyện tập và các yêu cầu khác.

 II. Chuẩn bị cho phẫu thuật viên

- Các xét nghiệm cần biết:  

+ Khám lâm sàng

+ X-Quang tim phổi

+ Hct

+ ECG

+ Các xét nghiệm nghiệm khác…

- PTV cần xem lại:

+ Chỉ định mổ

+ Nắm chắc giải phẫu, đường vào, các thì của phẫu thuật, các biến chứng có thể gặp và cách xử trí.

+ Đảm bảo đủ các dụng cụ mổ, các implant, và có người phụ sẵn sàng.

- Kháng sinh dự phòng

+ Thời điểm: có thể 15 phút trước khi bơm ga rô hay rạch da. Hoặc 2-6 giờ trước khi mổ

+ Chú ý lượng máu mất làm giảm lượng kháng sinh trong máu

+ Duy trì nồng độ kháng sinh liên tục trừ khi dùng ga rô

+ Nếu bệnh nhân dùng corticoide dài ngày cần phải chỉnh liều:

+ Ngày mổ dùng 100mg hydrocortisol (solucortef)

+ Dùng 1 liều như vậy cho hậu phẫu ngày thứ nhất

+ 50mg cho ngày thứ hai

+ 25 mg cho ngày thứ 3 và sau đó tiếp tục liều uống bình thường của bệnh nhân

- Bệnh nhân tiểu đường phụ thuộc insuline

+ Chuẩn bị bệnh nhân bị hémophilie:

+ Tuỳ thuộc vào loại hémophilie

+ Mục tiêu đạt 100% yếu tố đông máu trong huyết tương trước khi gây mê, duy trì mức 60% trong 4 ngày sau mổ và hơn 40% trong 4 ngày kế tiếp. Mức 100% cần thiết cho thủ thuật khớp và rút kim. 40% cần thiết để cắt chỉ, 20% cần thiết cho tập VLTL sau mổ ít nhất 4-6 tuần sau phẫu thuật khớp lớn

+ Bệnh nhân bị rối loạn chức năng tuyến giáp sẽ suy giảm sức chịu đưng cơ thể khi phẫu thuật có thể có nhưng biến chưng nguy hiểm

- Nếu bệnh nhân bị cường giáp:

+ Tăng hormone tuyến giáp làm tăng nhạy cảm hệ thần kinh và làm mất cân bằng nhiều cơ quan
ảnh hưởng lên chuyển hoá

- Bệnh nhân mổ cấp cứu:

+ Chỉ có cách không cho tạo hormone mới và khoá những hormone trong tuyến giáp không cho tiết ra. Propylthiouracil 200mg mỗi 8h và methimazole 20mg mỗi 8h, nếu không có thể dùng kali perchlorate 100mg mỗi 8h. Iode có thể dùng kali iode 15 giot 1 ngày

+ Nếu bn sốt cần hạ nhiệt có thể bằng tắm cồn hoặc quấn drap ướt.

+ Chậm nhịp tim bằng beta blocking

- Bệnh nhân mổ chương trình:

+ Cần điều chỉnh về bình giáp và để cho hệ thần kinh tự chủ cân bằng chức năng. Hai điều kiện này đòi hỏi ít nhất 3 tuần

- Bệnh nhân nhược giáp:    

+ Ngược lại với cường giáp nhưng biến chứng lại không ngược lại. Bệnh nhân rất nhạy cảm với thuốc

+ Nguy cơ do ức chế hệ thần kinh

+ Giảm sức đàn hồi cơ tim

+ Nhạy cảm với thuốc

- Bệnh nhân mổ cấp cứu:

+ Đưa nồng độ hormone tuyến giáp về bình thường

+ Nếu tình trạng khẩn cấp có thể phẫu thuật trước khi nồng độ hormone giáp trạng về bình thường. Tuy nhiên các thuốc cần phải cho liều thấp và từ từ, hạn chế dịch truyền, theo dõi chức năng thận.

Hình minh họa - Nguồn Internet

III. Chuẩn bị da bệnh nhân

Da lành chứa vô số khúm vi khuẩn thường trú và tạm thời.

Vi khuẩn thường trú: nằm ở lớp nông của da, ống thoát tuyến bã và nang lông. Đông đúc ở vùng da ẩm và nóng như nách, háng, hội âm. Chủ yếu là các loại staphylocoque coagulase(-), corynebacterie và Propionibacterium acnes.

Nguyên tắc là vô hại nhưng trở nên độc khi tiếp xúc với vật liệu bên ngoài như khớp nhân tạo, dụng cụ KHX bên trong…

Không thể loại trừ hết các khúm vi khuẩn mà chỉ làm giảm bớt số lượng.

Các vi khuẩn tạm thời mắc phải do tiếp xúc với người hoặc đồ vật như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn tan huyết nhóm bêta, vi khuẩn đường ruột và Pseudomonas aeroginosa mà bình thường không gây nhiễm trùng sâu. Việc chuẩn bị da cần phải nhất thiết loại hết nhóm này

Nhiễm trùng được tính theo công thức: nhiễm trùng=số lượng vi khuẩn*độc lực vi khuẩn/ sức đề kháng cơ thể.

Tỉ lệ nhiễm trùng tăng khi số lượng vi khuẩn trên 105. Nguồn vi khuẩn lây gây ra nhiễm trùng chủ yếu là từ vùng da mổ.

Chất sát trùng da có hiệu quả về mặt số lượng hơn là chất lượng do vậy cần nhiều công đoạn chuẩn bị da bệnh nhân trước mổ nhằm giảm thấp số lượng vi khuẩn

Bao gồm 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: tắm và tẩy rửa bằng chất sát trùng

Mục tiêu:

Giảm khúm vi trùng

Giảm áp lực da nông bằng cách tăng độ ẩm da

Loại trừ các chất hữu cơ gây nhiễm như vảy da, chất tiết nhờn…

Kỹ thuật chuẩn bị:

Tắm ngày trước mổ và sáng hôm mổ. Xà phòng sát khuẩn dùng là loại cùng gia đình với dung dịch sát khuẩn ở phòng mổ

Tắm ngày hôm trước mổ: cắt móng tay, tháo đồ trang sức, loại bỏ sơn móng tay, chân. Dầu gội và xà phòng bôi từ vùng sạch đến vùng dơ ( mặt cổ ngực lưng chân tay đến bàn chân nách hậu môn sinh dục) chú ý các vùng có vi khuẩn nhiều như rún, nếp bẹn, hội âm, kẻ ngón, móng) bệnh nhân dùng áo mặt 1 lần.

Sáng hôm mổ: không nhất thiết tắm lại nhưng cần lau rửa với xà phòng sát khuẩn.

Trường hợp đặc biệt: bệnh nhân không tự tắm được, bệnh nhân mổ trong ngày, bệnh nhân có vết thương hoặc bị loét.

Xà phòng sát khuẩn là loại có phổ diệt khuẩn rộng mà thành phần căn bản là iode hoặc chlorhexidine.

Các sản phẩm chứa iode: có phổ kháng khuẩn rộng từ vi khuẩn gram âm và dương, virus, nấm. Chống chỉ định ở phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ sơ sinh và người có cường giáp. Có thể gây kích ứng da.

Sau khi bôi betadine 30 giây, chúng ta có thể lau mà không làm giảm khả năng sát khuẩn.

Tác dụng kéo dài khoảng 2 giờ nhưng bị bất hoạt khi có máu và các chất hữu cơ.

Các chất có chlorhexidine phổ kháng khuẩn rộng, độc cho tai giữa có thể gây điếc tai, thời gian tác dụng ngắn, không bị bất hoạt bởi máu.

Giai đoạn 2:
cạo lông

Phương tiện cạo lông: dao cạo cơ học, điện, kem triệt lông trong đó kem không gây ra các vết thương da.

Khi nào cạo lông: thời gian từ lúc cạo đến lúc mổ càng ngắn càng tốt.

Có cần thiết cạo lông: không cạo lông không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng

Giai đoạn 3: chuẩn bị champ mổ

Gồm 4 giai đoạn: chà, rửa, lau khô, sát trùng da.

Những trường hợp đặc biệt:

Bệnh nhân mổ cấp cứu không có tổn thương da: rửa sau khi gây tê hoặc mê, cạo lông, rửa lại trước khi sát trùng da.

Trong trường hợp gãy hở: sau khi gây tê hoặc mê chà rửa lau khô vùng da lành trên và dưới vết thương, cạo lông, chà rửa lại. Bệnh nhân được chuyển vào phòng mổ, mở băng, vết thương cô lập bằng champ vô trùng, chà rửa vết thương sau đó sát trùng

Bệnh nhân chấn thương cột sống

Bệnh nhân mổ lại sớm (trong vòng 1 tháng): nguy cơ nhiễm trùng tăng vì khúm vi khuẩn bị biến đổi, nhiễm khuẩn bệnh viện, dùng kháng sinh dài ngày. Vùng mổ còn viêm cần nhấn mạnh việc chà rửa ở phòng mổ

Tóm tắt:

Có nhiều quan điểm  phụ thuộc không những vào việc thực hiện tốt mà còn vào việc phối hợp tốt các giai đoạn.

Điều quan trọng là phải có sơ đồ chuẩn bị và bảng đánh giá để chắc rằng các giai đoạn được chuẩn bị tốt.


Báo cáo trường hợp: Điều trị viêm xoang đa kháng thuốc
Cẩn thận với kẻ thù “vô hình” - Quản lý hen suyễn hiệu quả bằng cách tránh các chất gây dị ứng
HIỂU VỀ ĐỘT QUỴ VÀ ĐỘT TỬ: KIẾN THỨC CẦN BIẾT ĐỂ BẢO VỆ SỨC KHỎE
Bao nhiêu chất xơ trong một đĩa rau - Ăn ngon sống khỏe
Tư thế ngồi đúng khi làm việc – Bí quyết bảo vệ sức khỏe xương khớp
Thuyên tắc phổi – Những điều cơ bản cần biết
Hiểm họa chết người từ việc chích insulin sai cách ở người bệnh đái tháo đường
Test hơi thở ure (UBT) là gì?
Bệnh nhân gút nên ăn uống thế nào dịp Tết?
Dưỡng sinh - Ẩm thực mùa Tết
Social Zalo Zalo Social Facebook Facebook Social Youtube Youtube